THÁNH ALLAH HỒI GIÁO
Thánh đường Hồi Giáo
Năm
610, tại thành
phố Mecca thuộc xứ Arabia
(Ả-rập), một thương gia trạc tuổi 40 tên là Muhammad Abdallah bỗng nhiên cảm
thấy mình có sứ mạng của một vị thánh tiên tri (prophet) tương tự như Isaiah,
Jeremiah hoặc Ezekiel của đạo Do Thái. Vốn là một người thuộc bộ lạc Quraysh
(Qu-rê) theo đạo cổ truyền Ả Rập, Muhammad (Mu-ha-mét) thường cùng gia đình hay
bạn bè leo lên núi Hira để cầu nguyện trong tháng Ramadan, tức tháng 9 hàng năm
theo lịch Ả Rập. Trong tháng này, người Ả Rập thường cầu nguyện từ lúc mặt trời
mọc đến lúc mặt trời lặn và thường làm những việc phúc đức như săn sóc kẻ bệnh
tật, bố thí thức ăn cho người nghèo. Bộ lạc Quraysh, cũng tương tự như bộ lạc
Bedouin hay các bộ lạc cổ Do Thái, sinh sống chủ yếu bằng nghề du mục. Đến thế
kỷ 6 sau Công Nguyên, bỗng nhiên bộ lạc này bỏ hẳn nghề du mục và chuyển sang
nghề buôn bán. Sự thành công rực rỡ trên thương trường của bộ lạc Quraysh đã
biến Mecca thành một trung tâm thương mại quan trọng bậc nhất tại
vùng Arabia. Kinh thánh Koran kể rằng: Bộ lạc Quraysh đã trở thành
giàu có vượt xa mọi mơ ước hão huyền nhất của họ (They were rich beyond their
wildest dream). Một thế kỷ sau, tức vào thời Mahummad, dân Quraysh mãi mê chạy
theo bạc tiền, chỉ lo làm giàu bằng đủ mọi thủ đoạn và hoàn toàn vứt bỏ mọi giá
trị của tôn giáo cổ truyền Ả Rập. Xã hội Ả Rập trở nên hỗn loạn và phân hóa.
Muhammad tự cảm thấy cần phải có một giáo lý tôn giáo mới để thống nhất các dân
tộc Ả Rập thành một cộng đồng vững mạnh. Mộng ước của Muhammad đã thành công
vượt xa sự dự tưởng của mọi người: Chỉ trong một thời gian gần một thế kỷ, giáo
lý Hồi Giáo của Muhammad đã bành trướng thành một đế quốc rộng lớn, trải dài từ
Hy Mã Lạp Sơn đến chân núi Pyrénées thuộc miền Nam Châu Âu!
Trọng
tâm tín ngưỡng của đạo Hồi là Thiên Chúa. Tiếng Ả Rập "Allah" có
nghĩa là Thiên Chúa Cao Cả (The High God). Trước khi có đạo Hồi, phần đông
người Ả Rập đã chịu ảnh hưởng đạo Do Thái Nguyên Thủy của Abraham
(A-bờ-ra-ham). Do đó, người Ả Rập đã sẵn có từ lâu ý niệm về Thiên Chúa
(God/Allah).
Sử
gia Sezonenos, người Palestine theo đạo Kitô sống trong thế kỷ 5, đã viết:
Người Ả Rập ở Syria và nhiều nơi khác thuộc Bắc Phi thường tự xưng là
những tín đồ đạo chính thống của Abraham (The authentic religion of Abraham).
Trong số 3 người thân cận cộng tác với Muhammad lập ra đạo Hồi có Waraqua theo
đạo Kitô và Zayd theo đạo Do Thái Mai-sen.
Theo
kinh sách Hồi Giáo, vào năm 610, Zayd và Muhammad lên núi Hira cầu nguyện nhiều
tháng. Tháng thứ bảy, trong lúc Zayd đang cầu xin Thiên Chúa ban ơn mặc khải
thì vừa lúc Muhammad tỉnh giấc mơ sau lúc ngủ mê. Muhammad kể cho Zayd biết một
thiên thần đã hiện ra và ra lệnh cho ông ta phải thuật lại các mệnh lệnh của
Thiên Chúa. Sau 3 lần từ chối, cuối cùng Muhammad phải tuân lệnh Chúa kể lại
cho mọi người biết các điều Chúa phán dạy cùng ông. Đó là sự mặc khải (revelation)
của Thiên Chúa dành riêng cho một mình tiên tri Muhammad được biết mà thôi.
Muhammad
bắt đầu viết sách kể lại giấc mơ của mình như sau: Chúa phán: "Hãy kể lại
mọi sự nhân danh Đấng Quan Phòng của con, đấng đã tạo dựng loài người từ những
tế bào mầm sống. Hãy kể lại, vì Đấng Quan Phòng của con là Đấng Trọn Tốt, Trọn
Lành là Đấng đã dạy loài người biết xử dụng ngòi bút và đã dạy loài người biết
được những điều nó không biết".
(Recite in the name of thy Sustainer who has created man out of
germ-cell. Recite, for thy sustainer is the Most Bountiful, One who has
taught man the use of the pen, taught him what he did not know - Koran 96: 1).
Trước
Muhammad, lời của Thiên Chúa (Word of God) chỉ được truyền xuống thế gian bằng
tiếng Hebrew là ngôn ngữ cổ Do Thái. Từ thế kỷ 2 TCN, xứ Syria phát triển mạnh
về kỹ thuật và thương mại trong toàn vùng Địa Trung Hải tạo thành một ngôn ngữ
phổ thông mới được xử dụng trong nhiều quốc gia, đó là ngôn ngữ Aramic. Vào
thời của Jesus, dân Do Thái không còn nói tiếng Hebrew nữa mà xử dụng tiếng
Aramic của Syrialàm ngôn ngữ chính. Do đó, các Lời Chúa được "trực
tiếp truyền xuống" thế gian qua miệng của Chúa Jesus bằng tiếng Aramic .
Đến thế kỷ 7, với sự xuất hiện của kinh Koran, lần đầu tiên các Lời Chúa được
truyền xuống thế gian bằng tiếng Ả Rập! Chữ Koran phiên âm từ tiếng Ả Rập
"Quran" có nghĩa là sự thuật lại (Recitation).
Theo
Muhammad thì ông được diễm phúc đón nhận sự mặc khải của Thiên Chúa lần đầu
tiên trong lúc ông cầu nguyện cùng với Zayd trong một hang đá rồi ông có ý định
nhảy từ trên núi cao xuống vực sâu để tự tử. Bỗng nhiên thiên thần Gabriel hiện
ra dưới hình thức một người đàn ông lơ lửng trước mặt. Thiên thần can ngăn
không cho Muhammad tự tử và nói: "Hỡi Muhammad, ngươi là tông đồ của Thiên
Chúa. Ta là thiên thần Gabriel đây". Muhammad ngạc nhiên, đứng ngây ra
ngắm nhìn vị thiên thần sáng như một vầng hào quang. Chỉ trong thoáng chốc,
Muhammad không dám nhìn nữa và quay mặt lại thì thiên thần đã biến mất"!
(A life of Muhammad - p. 106)
Sau
biến cố trên, Muhammad chạy về nhà kể lại câu chuyện cho vợ nghe. Vợ ông là bà
Khadija lớn hơn ông 15 tuổi và cũng là một thương gia khét tiếng giầu có
tại Mecca thời đó. Muhammad coi vợ gần như một bà mẹ, ông năn nỉ
bà che chở và khuyên bảo. Bà Khadija vội vàng dẫn chồng đến nhà Waraqua là anh
họ (cousin) của bà. Waraqua, vốn theo đạo Kitô và rất thông thạo về kinh thánh
Tân Ước. Waraqua nói cho vợ chồng Muhammad biết rằng: Muhammad đã nhận được ơn
mặc khải từ Thiên Chúa của Abraham, của Moses và của Jesus. Muhammad đã được
chọn làm đặc sứ thiêng liêng (the divine envoy) của Thiên Chúa ở nơi các dân
tộc Ả Rập.
Từ
đó, Muhammad bắt đầu viết ra những điều mà ông cho là "được Thiên Chúa mặc
khải", nói đúng ra là kể lại "những lời của Chúa" đã nói riêng
với ông, cũng tương tự như Kinh Thánh của đạo Do Thái ghi lại những "lời
Chúa" đã "nói riêng" với Abraham hoặc Moses! Tuy nhiên, khác với
Moses được Thiên Chúa mặc khải một lần duy nhất trên núi Sinai, Muhammad được
Thiên Chúa mặc khải liên tục suốt 23 năm! Điều đó có nghĩa là Muhammad đã viết
kinh Koran trong 23 năm ròng rã, phần lớn dưới dạng ca vè. Năm 1988, nhà văn
Anh gốc Ấn Salman Rushdie đã viết cuốn tiểu thuyết mỉa mai đạo Hồi và gọi kinh
Koran là "Những vần thơ của quỉ" (Satanic Verses). Đọc kinh Koran,
người ta sẽ có cảm tưởng như đọc nhật ký vì các đoạn sách đều được ghi rõ ngày
tháng. Chúng ta có thể dễ dàng theo dõi các diễn tiến tư tưởng của Muhammad và
cũng dễ dàng kiểm chứng các sự kiện lịch sử liên quan đến giáo lý đạo Hồi. Kinh
Koran đề cập đến rất nhiều đề tài, nhưng cũng giống như đạo Do Thái và đạo
Kitô, trọng tâm của kinh Koran nói về Thiên Chúa, thiên đàng, hỏa ngục, ngày
tận thế và sự phán xét cuối cùng của Thiên Chúa đối với người sống và kẻ chết .
Muhammad
bắt đầu giảng đạo cho dân tộc Quraysh ở Mecca. Công
việc giảng đạo của ông tương đối dễ dàng vì không phải chứng minh sự hiện hữu
của Thiên Chúa. Vào thời đó, hầu hết các dân tộc Ả Rập đều tin có Thiên Chúa
tương tự như niềm tin của các tín đồ đạo Do Thái và đạo Kitô. Do đó, đối với
người Ả Rập, không có vấn đề vô thần (atheism). Trong kinh Koran, khi Muhammad
nói đến các kẻ không tin Chúa (unbelievers) là có ý nói đến những kẻ vô ơn Chúa
(one who is ungrateful to God) chứ không có ý nói đến những kẻ vô thần. Điều
quan trọng nhất của đạo Hồi là hoàn toàn vâng phục theo ý của Chúa. Mọi ý của
Chúa đều đã được Muhammad viết ra trong kinh Koran. Trong thực tế, vâng theo ý
Chúa là vâng theo mọi điều trong kinh Koran! Kinh Koran xác định: Tín đồ Hồi
Giáo là người hiến trọn đời mình cho Thiên chúa (Muslim was one - man or woman
- who has surrendered his or her whole being to God).
Cũng
tương tự như đạo Do Thái và đạo Kitô, người Hồi Giáo tin có quỉ Satan, tiếng Ả
Rập gọi là Shaitan. Nhưng khác với hai tôn giáo trên, kinh Koran khẳng định
Satan là con quỉ biết phục thiện và sẽ được Thiên Chúa tha tội vào ngày phán
xét cuối cùng!
Khác
với Kitô Giáo là một tôn giáo rất sợ khoa học, đạo Hồi quan niệm mọi sự trên
thế gian đều là những dấu hiệu (signs) của Thiên Chúa. Họ khuyến khích nghiên
cứu khoa học để tìm hiểu những tín hiệu (messages) của Thiên Chúa tiềm ẩn trong
mọi dấu hiệu đó. Người Hồi Giáo rất hâm mộ khoa học vì họ tin rằng khoa học là
phương tiện tốt nhất giúp con người khám phá thế giới và vũ trụ để hiểu biết
thêm về quyền năng của Thiên Chúa.
Hồi
Giáo phủ nhận Thiên Chúa Ba Ngôi của Kitô Giáo và coi đạo Kitô là "ngụy
Thiên Chúa Giáo". Vì đạo này không thật sự tôn thờ Một Thiên Chúa Duy Nhất
theo đúng ý nghĩa của Nhất Thần Giáo (Monotheism). Kinh Koran khẳng định chỉ có
Một Thiên Chúa là đấng tối thượng, duy nhất, sinh ra từ không và là nguồn gốc
mọi vật (Allah is the ultimate and unique reality. He is the One God. The
Eternal, the Uncaused Cause of all being - Koran: 112).
Quan
niệm về Thiên Chúa của đạo Hồi tương đồng với quan niệm về Thiên Chúa của đạo
Do Thái. Muhammad coi thuyết Thiên Chúa Ba Ngôi của Ki Tô Giáo là một sự nhục
mạ Thiên Chúa (blasphemous) và coi giáo điều "Chúa Cha đẻ ra Chúa
Con" là chuyện bậy bạ nhảm nhí. Do đó, Muhammad viết rõ trong kinh Koran:
"Thiên Chúa không đẻ con và cũng không được ai đẻ ra. Không có gì có thể
so sánh được với Thiên Chúa" (He begets not and neither is he begotten.
There is nothing that could be compared to Him - Koran 112).
Hồi
Giáo thù ghét đạo Kitô nhưng lại rất tôn trọng đức Jesus. Họ không tin Jesus là
Kitô (Chúa Cứu Thế) mà chỉ coi Jesus như một tiên tri của Thiên Chúa tương tự
như Abraham, Moses, Ismael, Isaac, Jacob. Họ cũng không tin Jesus là người đã
lập ra đạo Kitô. Đối với Hồi Giáo, tất cả các thánh tiên tri, kể cả Jesus, đều
là các tín đồ Hồi Giáo (muslims) vì họ là những kẻ hoàn toàn vâng theo ý Thiên
Chúa.
Kinh
Koran (2:135-136) viết: "Abraham là tín đồ Hồi Giáo đầu tiên biết phục
tùng Thiên Chúa. Đức tin của chúng ta là đức tin của Abraham. Chúng ta tin
Thiên Chúa và tin những gì Chúa đã phán truyền cho Abraham, Ismael, Isaac,
Jacob và con cháu của các ngài. Chúng ta tin những gì Thiên Chúa đã xác minh
với Moses và Jesus". (Abraham had been the first muslim to surrender to
God. Ours is the creed of Abraham. We believe in God and in that which has been
bestowed upon Abraham, Ismael, Isaac, Jacob and their descendants, and that
which has been vouched to Moses and Jesus).
Muhammad
viết kinh Koran từ năm 610. Hai mươi năm sau, tức vào năm 630, Muhammad trở
thành giáo chủ kiêm thủ lãnh toàn thành phố
Trên
phương diện lý thuyết, mọi tôn giáo đều khuyên con người làm lành lánh dữ. Trên
thực tế, Hồi Giáo cũng như Kitô Giáo đã bị lạm dụng và trở thành một tôn giáo
hiếu chiến. Hầu hết các nhà lãnh đạo các quốc gia Hồi Giáo đã trở thành các
thần chiến tranh (Warlords). Nạn đa thê là chuyện phổ biến trong các nước đạo
Hồi. Phụ nữ bị coi là những công dân hạng hai nếu không muốn nói là những nô lệ
tình dục. Bọn đàn ông quyền thế và giàu có thường lập các cung viện (harems)
chứa nhiều gái đẹp để tha hồ hành lạc. Việc sát hại các bé gái sơ sinh (female
infanticide) được coi là chuyện thông thường và gần như đã trở thành tục lệ.
Phụ nữ mỗi khi bước chân ra khỏi nhà bị bắt buộc phải dùng mạng vải che mặt.
Tục lệ này khởi đầu từ lúc Muhammad lên làm giáo chủ, các bà vợ của Muhammad
dùng mạng che mặt để biểu lộ địa vị (status) của họ. Sau này, tục lệ che mạng
đã trở thành một khổ hình cho các phụ nữ Hồi Giáo.
Trong tác phẩm A History
of God, (trang 162), tác giả Karen Amstrong nhận định: "Hồi Giáo ngày nay
bắt đầu tranh luận về bản chất của kinh Koran. Ý nghĩa của bản văn này có thực
là những lời của Thiên Chúa không? Nhiều người Hồi Giáo nhận ra kinh Koran là
nhảm nhí cũng như những người Kitô coi chuyện Ngôi Lời Nhập Thể (nhập tràng) là
nhảm nhí vậy." (Now muslims would begin to debate the nature of the Koran:
in what sense was the text really the words of God? Some muslims found Koran as
blasphemous as those Christians who had been scandalized by the idea that Jesus
had been the Incarnate Logos).
Xen thêm:
|